Vỉa hè Hà Nội xưa và nay

 (HNM) - Vỉa hè không chỉ dành cho người đi bộ, trồng cây xanh. Cùng với không gian, nó trở thành cảnh quan kiến trúc của đô thị. Tại Hà Nội, vỉa hè còn là nơi phô bày cuộc sống vô cùng phong phú...

(HNM) - Vỉa hè không chỉ dành cho người đi bộ, trồng cây xanh. Cùng với không gian, nó trở thành cảnh quan kiến trúc của đô thị. Tại Hà Nội, vỉa hè còn là nơi phô bày cuộc sống vô cùng phong phú... 

Sự ra đời của vỉa hè

Phố là từ Hán Việt có nghĩa: Cửa hàng hay nơi bán hàng của các phường nghề trên đất Thăng Long - Hà Nội. Từ thời vua Tự Đức (1847-1883), chỉ có một vài đường phố đông đúc Hoa kiều sinh sống là Hàng Chiếu, Mã Mây được lát gạch, còn lại hầu hết vẫn là đường đất. Không có vỉa hè, không có rãnh thoát nước nên sau mỗi trận mưa, mặt đường lại nhão nhoét. Tại khu vực buôn bán "36 phố phường", người buôn kê sạp lấn ra đường, họ còn che phên chống mưa nắng choán hết cả lối đi. Mỗi khi có xe ngựa đi qua, người đi bộ phải dạt sang hai bên, đứng dưới bùn lõng bõng. 

Sau khi chiếm được thành Hà Nội năm 1882, năm 1883, công sứ Bonnal, bắt đầu thực hiện chính sách cải tạo phố phường. Đầu tiên, ông ta cho quy hoạch khu vực Hồ Gươm, làm đường quanh hồ, mở rộng đường từ khu nhượng địa Đồn Thủy chạy ra thành Hà Nội, đồng thời chuẩn bị cho xây khu phố Pháp ở phía đông và nam Hồ Gươm. Cuối năm 1885, đường phố Hàng Khảm (bao gồm Tràng Tiền, Hàng Khay ngày nay) đã hoàn thành. Chiều rộng được mở rộng, đường được trải nhựa, hai bên vỉa hè cho lát gạch và trồng phượng để tránh nắng vào mùa hè. Và vỉa hè Hàng Khảm là vỉa hè đầu tiên của Hà Nội theo kiểu của thành thị phương Tây. Tiếp theo đó các phố mới hình thành mà nay là Ngô Quyền, Lê Lai, Lê Thạch, Cổ Tân, chính quyền thành phố đã cho lát vỉa hè, trồng cây lấy bóng mát.

Cùng với việc xây khu phố mới ở phía đông và nam Hồ Gươm theo quy hoạch giống như Paris, tòa đốc lý cũng ra nhiều quyết định cải tạo khu vực "36 phố phường", cấm dân không được làm nhà lá, các hộ phải xây thẳng theo quy định, phải chừa đất làm vỉa hè, làm rãnh thoát nước. Năm 1897, số đường ở khu "36 phố phường" do chính quyền cho làm đã là 45.500m, tuy nhiên nhiều đường phố vẫn là đường đất. Trong cuốn "Xứ Đông Pháp và những kỷ niệm" (L'Indochine Francaise souvenirs) của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer (nhiệm kỳ 1897-1902), ông ta viết: "Khi tôi đến Hà Nội vào tháng 
3-1897 thì khu phố của người An Nam với những cửa hàng lấn ra đến tận đường, phố xá không có vỉa hè và chen chúc những người và người. Đó chính là những thứ đích thực của Hà Nội".

Năm 1902, số đường được làm đã tăng thêm 22.121m. Trong khi đó tại các phố phía nam Hồ Gươm nay là Trần Hưng Ðạo, Hàng Bài, Lý Thường Kiệt, Hai Bà Trưng, Bà Triệu,... từ năm 1897 đến 1901 người ta tiếp tục lát vỉa hè được khoảng 5 cây số. Trong kế hoạch cải tạo, hội đồng thành phố cũng đã biểu quyết lấy từ ngân sách để tiếp tục lát vỉa hè ở những phố lớn khu trung tâm. Vỉa hè được lát bằng đá hình vuông khổ 30cm x 30cm, dày 3cm, trên mặt khía chéo để tránh trơn trượt cho người đi đường. Mép hè là đá xanh chôn sâu xuống mặt đường vừa làm thành rãnh thoát nước vừa làm vật chắn phòng xe ngựa lao lên hè gây thương tích cho người đi bộ. Trên vỉa hè bao quanh nhà Godard (nay là Tràng Tiền Plaza), trước lối vào có dòng chữ tiếng Pháp "Khu vực cấm để xe đạp" bằng đá trắng gắn chìm vào vỉa hè. 

 
Vỉa hè dành cho khách bộ hành trên phố Hàng Gai. Ảnh: Thu Giang
Vỉa hè dành cho khách bộ hành trên phố Hàng Gai. Ảnh: Thu Giang

Quản lý vỉa hè

Ngay từ khi vỉa hè ra đời, chính quyền thành phố đã tính đến việc lấy kinh phí ở đâu để sửa chữa nó. Ngày 20-12-1889, đốc lý Hà Nội là Landes đã ban hành một nghị định cho thuê vỉa hè để dân mở cửa hàng hay bán cà phê với giá 40xu/m2. Số tiền này sẽ đưa vào quỹ bảo trì hè phố. Đầu thế kỷ XX, khi các khách sạn hạng sang xuất hiện ngày càng nhiều quanh khu vực Hồ Gươm thì chủ khách sạn đã thuê vỉa hè mở quán cà phê dọc theo mái hiên khách sạn. Không chỉ người Pháp sống ở Hà Nội, khách du lịch Châu Âu đến thành phố này rất thích thú khi ngồi uống cà phê vỉa hè ngắm phố. Cùng với cho thuê vỉa hè, Thống sứ Bắc Kỳ cũng đã ra nghị định quản lý đô thị (đăng trên công báo ngày 21-4-1890) trong đó điều 1 ghi rõ: "Những phố hiện có và sẽ được tạo nên có chiều rộng lòng đường và vỉa hè được chỉ định", kèm theo là một phụ lục gồm các phố đã có và các phố sẽ mở. Với các phố ở khu vực "36 phố phường", vỉa hè hẹp nhất cũng phải 3m, một số phố sẽ là 4m. Với các khu phố ở phía đông và phía nam Hồ Gươm như: Ngô Quyền, Lê Phụng Hiểu, Hàng Bài, Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo... vỉa hè tối thiểu phải rộng 5m, phố rộng nhất là 7,5m. Chính quyền còn ra các qui định về xây dựng đối với nhà mặt tiền để hài hòa với vỉa hè, tạo mỹ quan kiến trúc đô thị. Trong "Quy chế lục lộ" ban hành ngày 21-9-1891 ghi cụ thể: "Vỉa hè rộng 3m thì bậc cửa ra vào chỉ được phép cao 10cm, vỉa hè rộng 5m thì bậc cửa là 15cm và vỉa hè rộng 7,5m thì bậc cửa cao 20cm...". bên cạnh đó là qui định về chiều cao, cửa sổ, ban công... rất chi tiết. Quy chế cũng quy định: "Tất cả chủ nhà mặt phố, người thuê phải có trách nhiệm dọn vệ sinh hè phố trước cửa nhà, khơi thông rãnh thoát nước, nếu không thực hiện sẽ bị phạt theo các điều của Bộ luật Hình sự nước Pháp". Sang đầu thế kỷ XX, những quy định về vỉa hè có sửa chữa đôi chút nhưng cơ bản nó vẫn giữ nguyên và được thực hiện cho đến năm 1945.

Vỉa hè sau 1954 và ngày nay 

Sau 1954, các quy định cũ về quản lý đô thị Hà Nội bị bãi bỏ, nhưng người dân vẫn tự giác vệ sinh vỉa hè theo nếp đã hình thành trước đó. Việc cho thuê vỉa hè cũng bị bãi bỏ nên quán cà phê của các khách sạn đương nhiên không còn. 

Khi Mỹ ném bom miền Bắc năm 1964, vỉa hè Hà Nội đẹp đẽ bắt đầu gánh vác một sứ mạng mới. Người ta cho đào các hầm trú bom cá nhân trên hè phố, khoảng 6 đến 8m một hầm. Người đang đi trên đường nếu nghe còi báo động từ nóc Nhà hát lớn sẽ chui xuống hố này tránh mảnh bom. Tháng 1 năm 1973, Hiệp định Paris được ký kết, Mỹ phải rút quân khỏi Việt Nam và miền Bắc được sống trong hòa bình thì các hầm trú ẩn cá nhân hoặc bị lấp hoặc dân ven đô đào mang về làm khoanh giếng thơi. Ở các phố trung tâm, xí nghiệp quản lý vỉa hè còn cho láng xi măng nhưng các phố khác thì nó trở thành hố trũng đọng nước mỗi khi trời mưa. Rồi tiếp đó nước sạch dùng cho sinh hoạt thiếu trầm trọng, nước từ đường ống chính không chảy nổi vào các vòi trong nhà nên dân hàng phố đua nhau đào bể trên vỉa hè lấy nước từ đường ống chính. Vỉa hè thành chỗ rửa rau vo gạo, giặt giũ quần áo, tắm táp vào mùa hè, luộc bánh chưng vào dịp Tết Nguyên đán. Là khách sạn "đờ la hiên" cho các bác xích lô quê, thành chợ cóc vì thế mới có câu "Vỉa hè là của nhân dân anh hùng". Cho đến thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, vỉa hè ở các phố trung tâm như tấm áo vá, nào gạch lá dừa xen lẫn gạch xi măng và cả đoạn dài láng xi măng cát vàng, chỗ cao chỗ thấp. Các phố xa Hồ Gươm thì vỉa hè lồi lõm, chỗ trơ đất, chỗ còn gạch, lở loét như bị nhiễm trùng. 

Khoảng chục năm trở lại đây, bộ mặt vỉa hè Hà Nội có khá hơn. Cơ quan quản lý thay gạch xi măng, lá dừa bằng gạch bê tông hình lục giác hay dấu ngã. Thời gian thi công nhanh, không cần phải chăng dây xung quanh chờ mạch vữa khô như trước. Tuy nhiên do thi công ẩu nên chỉ một thời gian, vỉa hè ở nhiều tuyến phố viên lồi lên, viên lõm xuống trông bực mắt vô cùng. Năm 2010, kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, khu vực "36 phố phường" được nâng cao mặt đường, làm đường thoát nước mưa riêng, lát đá hình vuông. Do mặt đá nhẵn nên ngày mưa không ít các cô mặc đồ đầm đi giày cao gót đã "xoạc cẳng đo xem đất ngắn dài". Lại thêm đơn vị thi công tự ý nâng vỉa hè cao lên khiến nhiều nhà bỗng thấp hơn mặt đường phố và kết quả mưa lớn là "nhà thành ao". 

Thật đáng tiếc, vỉa hè từng là đường diềm đẹp trang trí cho đường phố, góp phần tôn cảnh quanh kiến trúc Hà Nội giờ chả rõ công năng, dành cho khách đi bộ? Buôn bán hay bãi đỗ xe máy?...